Hơn 1/3 động vật có vú ở Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng

Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới, nhưng nhiều loài đang giảm mạnh về số lượng, trong đó hơn 1/3 số loài động vật có vú đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.

Kết quả nghiên cứu được các nhà khoa học người Đức Hanna Höffner tại Đại học Cologne hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Vườn thú Cologne và một số tổ chức quốc tế công bố trên tạp chí Nature Conservation cuối năm 2024.

Dữ liệu phân tích cho thấy, trong danh sách 329 loài động vật có vú xuất hiện tại Việt Nam, có tới 112 loài (khoảng 34%) có nguy cơ tuyệt chủng. Trong số đó, 36 loài là đặc hữu (không tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới) và 9 loài được phân loại là siêu đặc hữu, chỉ xuất hiện ở những khu vực rất nhỏ trong lãnh thổ Việt Nam.





Sao la là một trong những loài động vật có vú quý hiếm tại Việt Nam. Ảnh: WWF

Sao la là một trong những loài động vật có vú quý hiếm tại Việt Nam. Ảnh: WWF

Các loài có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất chủ yếu thuộc Bộ Linh trưởng, Bộ Thú ăn thịt, Bộ Guốc chẵn, Bộ Gặm nhấm và Dơi. Toàn bộ các loài động vật linh trưởng ở Việt Nam đều nằm trong danh sách bị đe dọa. Một số động vật linh trưởng như Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalus) và Voọc chà vá chân xám (Pygathrix cinerea) đang trong tình trạng cực kỳ nguy cấp.

“Các khu vực như dãy Hoàng Liên Sơn ở miền Bắc và dãy Trường Sơn ở miền Trung và miền Nam cần quan tâm nhiều hơn đến công tác bảo tồn, bởi vì đây là nơi ẩn náu của nhiều loài đặc hữu”, nhóm nghiên cứu nhận định.

Nguyên nhân làm giảm số lượng loài chủ yếu đến từ sự gia tăng dân số, biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế nhanh chóng. Các hoạt động như chặt phá rừng để lấy đất trồng trọt, phát triển cơ sở hạ tầng và khai thác tài nguyên ngày càng làm gia tăng áp lực lên các hệ sinh thái tự nhiên. Ngoài ra, nạn săn bắn và buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp cũng là một mối đe dọa lớn.

Theo nhóm nghiên cứu, hầu hết các loài có nguy cơ tuyệt chủng đều có mặt trong ít nhất một khu bảo tồn ở Việt Nam. Tuy nhiên, có hai loài đặc biệt dễ bị tổn thương bởi vì chúng không xuất hiện ở bất kỳ khu bảo tồn nào, đó là dơi mũi ống Đà Lạt (Murina harpioloides) và thỏ rừng Trung Hoa (Lepus sinensis).

Nhóm nghiên cứu ủng hộ “Phương pháp tiếp cận Một kế hoạch (OPA)” của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đối với công tác bảo tồn loài. Đây là một chiến lược bảo tồn tích hợp, kết hợp các nỗ lực bảo vệ loài trong tự nhiên (in situ) và nuôi nhốt (ex situ), nhân giống có kiểm soát tại các vườn thú và trung tâm bảo tồn theo một kế hoạch chung. Hiện tại, khoảng 40% số loài bị đe dọa không nằm trong bất kỳ chương trình bảo tồn nuôi nhốt nào, khiến nguy cơ tuyệt chủng của chúng gia tăng.

Phương pháp OPA khuyến khích sự hợp tác giữa các nhà khoa học, cơ quan quản lý, tổ chức phi chính phủ (NGO), cộng đồng địa phương và các vườn thú nhằm tối ưu hóa biện pháp bảo vệ loài, giúp giảm nguy cơ tuyệt chủng và đảm bảo sự tồn tại lâu dài của quần thể động vật.

Khi một loài đã tuyệt chủng, điều đó không thể đảo ngược. Nhưng nếu chúng ta vẫn bảo tồn và nhân giống các loài bị đe dọa trong vườn thú, chúng ta có thể thả chúng về tự nhiên khi môi trường sống của chúng đã phục hồi, theo đồng tác giả nghiên cứu Thomas Ziegler, điều phối viên các dự án bảo tồn đa dạng sinh học và thiên nhiên tại Vườn thú Cologne (Đức).

Lê Hùng



Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *